Theo các Công văn số 1635/UBND-QLĐT ngày 21-6-2006, Công văn số 554/UBND-QLĐT ngày 9-3-2007 của Uỷ ban nhân dân quận trả lời bà M và Công văn số 968/UBND-QLĐT ngày 17-4-2007 của Uỷ ban nhân dân quận trả lời Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có nội dung: bà M được xét miễn
So sánh Sách - Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi bổ sung 2017 (phần chung) - GIÁ RẺ chỉ từ ₫154400 • BeeCost cập nhật 7 phút trước. Beecost.vn 1 phút trước 829 Like. Trần Gia Hưng. Trần Gia Hưng tốt nghiệp trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn
Truyền thông nhà nước Iran IRNA đưa tin ít nhất 8 người bị thương trong vụ hỏa hoạn tại nhà tù Evin ở phía bắc Tehran. Một đám khói lớn và đen kịt đã được nhìn thấy bốc lên gần nhà tù trong nhiều video trên mạng xã hội vào tối thứ Bảy. Thống đốc […]
Ngày 18-10, Công an tỉnh Thái Bình cho biết Cơ quan CSĐT Công an huyện Vũ Thư đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam đối với ba người để điều tra về tội "bắt, giữ người trái pháp luật".
Tiếp theo các cuốn “Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015…”, tác giả Đinh Văn Quế – Thạc sỹ Luật học, nguyên Thành viên Hội đồng Thẩm phán, Chánh Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông tiếp tục cho ra mắt bạn đọc
5N0JGT. NỘI DUNG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNHNHẬN THẤYXÉT THẤYQUYẾT ĐỊNHBÌNH LUẬN BẢN ÁN1. Dẫn nhậpI. Là một loại hình thức của di chúc2. Điều 657 và 658 BLDS3. Quan điểm khác nhau4. Hướng của Tòa giám đốc thẩm5. Nhận xét bổ sungII. Điều kiện để di chúc có giá trị pháp lý6. Di chúc bằng văn bản7. Không thuộc trường hợp thủ tục bắt buộc8. Đúng ý chí của người lập di chúc9. Nội dung của di chúc10. Kết luậnCHÚ THÍCH Di chúc có công chứng, chứng thực Tác giả Đỗ Văn Đại & TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng Xem thêm bài viết về “Bình luận bản án” Bình luận bản án Thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức – Đỗ Văn Đại Bình luận bản án số 42/2010/DS-ST Sính lễ trong pháp luật Việt Nam – Đỗ Văn Đại & ThS. Lê Thị Diễm Phương Bình luận bản án Ngôn ngữ trong tố tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam – Đỗ Văn Đại Bình luận bản án Điều kiện từ chối đăng ký, sử dụng tên miền – Đỗ Văn Đại & ThS. Nguyễn Ngọc Hồng Phượng Bình luận bản án Di chúc có công chứng, chứng thực – PGS. Đỗ Văn Đại & TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng NỘI DUNG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH Quyết định số 355/2012/DS-GDT ngày 15/8/2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao NHẬN THẤY Tại quyết định số 195/2012/KN-DS ngày 04/6/2012 Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với bản án dân sự phúc thẩm số 129/2010/DS-PT ngày 14/5/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. Đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 174/2009/DS-ST ngày 25/12/2009 của Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương để xét xử sơ thẩm lại với nội dung Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa lấy lời khai ông Thanh về sự việc trên để làm rõ có việc cụ Dọn đem di chúc lên Ủy ban nhân dân xã yêu cầu chính quyền xác nhận vào di chúc hay không. Nếu qua thu thập chứng cư có cơ sở xác định cụ Dọn là người trực tiếp đem di chúc đến yêu cầu chính quyền xác nhận vào di chúc, thì mặc dù hình thức di chúc không đúng theo quy định của pháp luật nhưng đã thể hiện đúng ý chí của cụ Dọn là cho ông “Xiểm” hưởng tài sản của cụ thì phải công nhận di chúc của cụ Dọn. Nếu không có căn cứ xác định di chúc thể hiện đúng ý chí của cụ Dọn thì cũng phải xem xét đến công sức của ông Xiểm để công nhận cho ông Xiểm hưởng ½ di sản của cụ Dọn mới hợp tình, hợp lý và đảm bảo quyền lợi cho ông Xiểm. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa thu thập chứng cứ đầy đủ đã xác định di chúc ông Xiểm xuất trình không hợp pháp, chỉ trích công sức cho ông Xiểm hưởng 30% giá trị di sản là chưa đảm bảo quyền lợi của ông Xiểm. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với nội dung kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Chánh án. XÉT THẤY Căn cứ các tài liệu do bà Thủy, bà Phỉ xuất trình là “Trích lục chứng thư hôn thú ngày 08/7/1970”, “Trích lục bộ khai sinh ngày 10/7/1970”, “Chứng chỉ đăng bạ quả phụ ngày 02/02/1971”, “Nghị định 781 của Tổng trưởng cựu chiến binh ngày 19/6/1972”, ”Chứng thư hành chính ngày 21/8/1970”, “Trích lục án phòng lục sự tòa ngày 03/3/1971” thì có căn cứ xác định bà Thủy, bà Phỉ là con đẻ của cụ Bộ với cụ Tua, cụ Bộ là em ruột cụ Dọn. Do đó, tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm xác định bà Phỉ, bà Thủy thuộc hàng thừa kế thứ 3 của cụ Dọn là có căn cứ. Về diện tích đất trên có nhà cấp 4, thuộc thửa 230, tờ bản đồ số 31, tọa lạc tại ấp 5 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 04/11/1999 do cụ Dọn chết để lại hiện ông Xiểm đang quản lý, sử dụng. Bà Thủy, bà Phỉ cho rẳng nhà đất trên cụ Dọn chỉ cho ông Xiểm cháu họ một phần đất để cất nhà ở bên cạnh, phần còn lại các nguyên đơn yêu cầu được hưởng thừa kế theo pháp luật. Ông Xiểm cho rằng cụ Dọn ở chung với gia đình ông từ năm 1983, được ông nuôi dưỡng đến khi chết năm 2004; diện tích đất trên là của cụ Dọn còn nhà cấp 4 là do ông xây từ năm 1998; ngày 02/11/2000 cụ Dọn đã lập di chúc cho ông toàn bộ nhà đất này, ông đã kê khai và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2004. Xét di chúc đứng tên cụ Dọn lập ngày 02/11/2000 có nội dung cụ Dọn có đất thổ vườn, trên có căn nhà lợp tole vách tường tại ấp 5, cụ lập di chúc để lại tài sản trên cho ông “Xiểm” hưởng sau khi cụ qua đời, có xác nhận của Trưởng ấp ngày 03/11/2000 và đến ngày 20/11/2000 Ủy ban xã Vĩnh Tân xác nhận “Cụ Dọn có số tài sản trên là đúng”. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, ông Thành nguyên là cán bộ tư pháp xã có lời khai, cụ Dọn mang di chúc lên Ủy ban nhân dân xã và ký tên tại xã có sự chứng kiến của ông Dũng và ông Thanh trưởng và phó ấp 5, nhưng tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa lấy lời khai ông Thanh về sự việc trên để làm rõ có việc cụ Dọn đem di chúc lên Ủy ban nhân dân xã yêu cầu chính quyền xác nhận vào di chúc hay không. Nếu qua thu thập chứng cứ có cơ sở xác định cụ Dọn là người trực tiếp đem di chúc đến yêu cầu chính quyền xác nhận vào di chúc, thì phải xác định ý chí của cụ Dọn là cho ông “Xiểm” hưởng tài sản của cụ. Nếu không có căn cứ xác định di chúc không thể hiện đúng ý chí của cụ Dọn thì cũng phải xác nhận phần công sức của ông Xiểm để công nhận cho ông Xiểm hưởng ½ di sản của cụ Dọn mới hợp tình, hợp lý và đảm bảo quyền lợi cho ông Xiểm. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng cứ đã xác định di chúc của cụ Dọn không hợp pháp và chỉ trích công sức cho ông Xiểm hưởng 30% giá trị di sản là chưa đảm bảo quyền lợi của ông Xiểm. Vì vậy, kháng nghị của Chánh án tòa án nhân dân tối cao đề nghị tòa Dân sự tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 174/2009DS-ST ngày 25/12/2009 của tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; giao hồ sơ vụ án cho tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương để xét xử sơ thẩm lại là cần thiết. Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 2 Điều 291, khoản 3 Điều 297 và Điều 299 của Bộ luật Tố tụng dân sự; QUYẾT ĐỊNH Hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm số 129/2010/DS-PT ngày 14/5/2010 của tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 174/2009/DS-ST ngày 25/12/2009 của tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương về vụ án tranh chấp di sản thừa kế giữa nguyên đơn là bà Thủy, bà Phỉ với bị đơn ông Xiểm; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Huệ. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương để xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. Xem thêm bài viết về “Công chứng” [TUYỂN TẬP] Đề thi môn Công chứng Luật sư – ThS. LS. Phạm Quang Thanh 1. Dẫn nhập Pháp luật hiện hành công nhận quyền lập di chúc của cá nhân để định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Sau khi người để lại di sản chết đi, những người còn sống căn cứ vào di chúc để thực hiện ý nguyện của người đã khuất nếu di chúc có giá trị pháp lý. Về cách thức lập di chúc, hiện nay chúng ta gặp rất phổ biến trường hợp người để lại di sản lập di chúc ở nhà sau đó đem di chúc đến công chứng, chứng thực nhưng sau khi người để lại di sản chết những người còn sống tranh chấp về tính hợp pháp của di chúc này. Vụ việc được bình luận là một ví dụ điển hình của hoàn cảnh vừa nêu. Cụ thể, trước khi chết cụ Dọn có lập di chúc để lại di sản cho ông Xiểm. Về cách thức lập di chúc, theo cán bộ tư pháp xã, cụ Dọn đã lập di chúc ở nhà và mang di chúc lên Ủy ban nhân dân xã xác nhận và ký tên. Sau khi cụ Dọn chết, có người người được thụ hưởng theo nội dung di chúc cho rằng di chúc này hợp pháp và cần được tôn trọng nhưng người thừa kế theo pháp luật của cụ Dọn lại cho rằng di chúc này không hợp pháp nên cần phải chia di sản theo pháp luật. Quyết định được bình luận cho phép suy luận rằng đây là một loại hình thức lập di chúc được chấp nhận I nhưng chúng ta cũng cần bàn thêm điều kiện để di chúc này có giá trị pháp lý II. I. Là một loại hình thức của di chúc 2. Điều 657 và 658 BLDS Liên quan đến di chúc được công chứng, chứng thực thì BLDS có hai điều khoản gây tranh cãi liên quan đến hình thức của di chúc. Thứ nhất là Điều 658 BLDS năm 2005 tức Điều 661 BLDS năm 1995 về Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn theo đó “người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc” khoản 1. Thứ hai là Điều 657 BLDS năm 2005 tức Điều 660 BLDS năm 1995[1] về Di chúc có công chứng hoặc chứng thực theo đó “người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc”. 3. Quan điểm khác nhau Về hình thức của di chúc, hiện nay có quan điểm trái chiều nhau xuất phát từ hai điều luật trên. Có quan điểm cho rằng di chúc có công chứng, chứng thực tại Điều 657 BLDS phải tuân theo các điều kiện thủ tục được quy định tại khoản 1 Điều 658 vì Điều 657 có vai trò giới thiếu loại di chúc có công chứng, chứng thực và Điều 658 là quy định cụ thể hóa Điều 657. Quan điểm này theo hướng Điều 657 và Điều 658 nêu trên là một khối thống nhất nên di chúc có công chứng, chứng thực phải là di chúc được lập theo thủ tục tại Điều 658. Chẳng hạn, Giáo trình Luật dân sự của Học viện tư pháp Nxb. Công an nhân dân năm 2007, tr. 529 đã theo hướng di chúc của Điều 657 BLDS phải tuân theo thủ tục của Điều 658 BLDS. Liên quan đến “di chúc viết có công chứng, chứng thực”, giáo trình của Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng “việc công chứng, chứng thực di chúc phải đúng thủ tục như quy định tại khoản 1 Điều 658 BLDS năm 2005”[2]. Với quan điểm trên, di chúc như trường hợp của cụ Dọn là không phù hợp với quy định về hình thức di chúc vì nội dung di chúc đã được soạn sẵn trước khi tới cơ quan công chứng, chứng thực và dường như đây cũng là hướng xác định trong Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao liên quan đến vụ việc trên. Bởi lẽ, trong Kháng nghị số 195/2012/KN-DS ngày 04/6/2012 của Chánh án, chúng ta thấy nêu “hình thức di chúc không đúng theo quy định của pháp luật”[3]. Tuy nhiên, có quan điểm lại cho rằng Điều 658 trên chỉ liên quan tới một loại hình thức của di chúc là di chúc được lập tại cơ quan công chứng hay chứng thực và Điều 657 ghi nhận một loại hình thức di chúc khác, độc lập với hình thức được quy định tại Điều 658. Ở đây, di chúc không được lập theo thủ tục tại khoản 1 Điều 658 thì vẫn có giá trị pháp lý nếu đáp ứng được yêu cầu của Điều 657. Với quan điểm thứ hai, loại di chúc như của cụ Dọn là phù hợp với quy định và đây là quan điểm của một chuyên gia của Tòa án nhân dân tối cao. Cụ thể, liên quan đến “các loại di chúc theo quy định của BLDS năm 2005”, thẩm phán Chu Xuân Minh xác định có loại “di chúc có công chứng hoặc chứng thực” và có loại “di chúc được lập tại cơ quan công chứng hoặc tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn” với sự khác biệt là, đối với “di chúc có công chứng hoặc chứng thực”, thẩm phán Chu Xuân Minh cho rằng “khi người lập di chúc tự mình đi công chứng, chứng thực thì bản di chúc là hợp pháp kể cả trường hợp họ không tự viết đánh máy, chẳng hạn”, còn đối với “di chúc được lập tại cơ quan công chứng hoặc tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn”, chuyên gia này xác định “đây là trường hợp bản di chúc được lập ngay tại cơ quan công chứng, chứng thực và người lập di chúc chỉ cần tuyên bố nội dung di chúc chứ không phải là mang di chúc đến xin công chứng, chứng thực”[4]. Bên cạnh đó, theo tác giả Phùng Trung Tập, “di chúc có công chứng hoặc chứng thực Điều 657, người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng nhà nước chứng nhận bản di chúc của mình hoặc có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực vào di chúc do mình lập ra. Người lập di chúc phải tự mình mang bản di chúc đến công chứng nhà nước yêu cầu công chứng. Pháp luật không cho phép người lập di chúc ủy quyền cho người khác mang di chúc của mình đến công chứng nhà nước yêu cầu công chứng”[5]. 4. Hướng của Tòa giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao không theo hướng “hình thức di chúc không đúng theo quy định của pháp luật” như Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao vì trong phần Xét thấy Tòa giám đốc thẩm không nêu lại ý kiến này của Chánh án. Liên quan đến di chúc, Tòa giám đốc thẩm xét rằng “nếu qua thu thập chứng cứ có cơ sở xác định cụ Dọn là người trực tiếp đem di chúc đến yêu cầu chính quyền xác nhận vào di chúc, thì phải xác định ý chí của cụ Dọn là cho ông “Xiểm” hưởng tài sản của cụ” và “Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng cứ đã xác định di chúc của cụ Dọn không hợp pháp và chỉ trích công sức cho ông Xiểm hưởng 30% giá trị di sản là chưa đảm bảo quyền lợi của ông Xiểm”. Như vậy, theo Tòa giám đốc thẩm, nếu xác định được cụ Dọn trực tiếp đem di chúc đi chứng thực thì không thể xác định “di chúc không hợp pháp” như Tòa sơ thẩm và phúc thẩm đã làm mà cần để người được nêu trong di chúc thụ hưởng di sản tức di chúc này có giá trị pháp lý. Ở đây, Tòa giám đốc thẩm dường như đã theo hướng quan điểm thứ hai nêu trên. 5. Nhận xét bổ sung Bản thân pháp luật không là mục đích mà chúng ta hướng tới. Điều chúng ta hướng tới là hệ quả mà pháp luật đem lại và pháp luật chỉ là công cụ để đạt được các hệ quả đó. Do vậy, đối với những vấn đề mà pháp luật còn chưa rõ ràng dẫn tới những cách hiểu khác nhau thì chúng ta nên xử lý theo hướng tạo cho xã hội phát triển hoặc ít ra cũng không làm cho hoàn cảnh tồi tệ hơn. Việc ghi nhận di chúc như trên của Tòa giám đốc thẩm là hoàn toàn thuyết phục. Nếu không theo hướng của Tòa giám đốc thẩm mà theo hướng của Tòa sơ thẩm và phúc thẩm trong vụ án này thì chúng ta sẽ vô hiệu hóa nhiều di chúc mà chúng ta đã xác định thể hiện ý chí đích thực của người để lại di sản. Thực ra, thủ tục quy định tại khoản 1 Điều 658 nêu trên được áp dụng cho trường hợp “lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn” trong khi đó, đối với hoàn cảnh như cụ Dọn, di chúc không được “lập tại cơ quan” trên nên không thể áp dụng các quy định về thủ tục được nêu tại Điều 658. Do đó, việc không không vận dụng khoản 1 Điều 658 cho di chúc như trường hợp của cụ Dọn là hợp lý. Qua đây, chúng ta có thể cho rằng Điều 657 BLDS ghi nhận một hình thức độc lập với Điều 658 BLDS; di chúc được lập theo Điều 658 là di chúc “được lập tại cơ quan” công chứng, chứng thực còn di chúc có công chứng, chứng thực theo Điều 657 không cần được lập tại các cơ quan trên mà chỉ cần có công chứng hay chứng thực. Di chúc không được lập như quy định của Điều 658 hoàn toàn có thể có giá trị pháp lý về hình thức trên cơ sở Điều 657 nếu thỏa mãn các điều kiện sẽ được phân tích dưới đây. II. Điều kiện để di chúc có giá trị pháp lý 6. Di chúc bằng văn bản Di chúc là sự thể hiện ý chí của một người nhằm định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Về hình thức thể hiện ý chí của người để lại di sản, theo quy định tại Điều 649 BLDS, di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Di chúc bằng miệng chỉ được lập trong hoàn cảnh rất đặc biệt và chúng ta không bàn ở đây vì không liên quan đến di chúc như trường hợp của cụ Dọn[6]. Về hình thức bằng văn bản, hiện nay pháp luật dân sự đưa ra khá nhiều loại di chúc khác nhau. Nhìn qua Điều 650 BLDS Điều 653 BLDS năm 1995 về Di chúc bằng văn bản, chúng ta thấy liệt kê 04 loại di chúc khác nhau là “1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng; 2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng; 3. Di chúc bằng văn bản có công chứng; 4. Di chúc bằng văn bản có chứng thực”. Trong bài viết của mình, chuyên gia nêu trên của Tòa án tối cao liệt kê 06 loại hình thức của di chúc trong đó có Di chúc có công chứng hoặc chứng thực[7]. Theo một số nhà bình luận, trong những loại di chúc này, “người lập di chúc bằng văn bản có quyền, tùy ý muốn của mình và tùy theo hoàn cảnh cụ thể chọn một trong những hình thức di chúc bằng văn bản nói trên khi lập di chúc bằng văn bản”[8]. Thực ra, đối với Di chúc có công chứng hoặc chứng thực tại Điều 657, BLDS hiện hành còn tương đối chung chung so với các loại di chúc khác như Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng Điều 655, di chúc được lập tại cơ quan công chứng hoặc tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn Điều 658. Để có giá trị pháp lý, loại di chúc có công chứng hay chứng thực phải hội đủ một số điều kiện. 7. Không thuộc trường hợp thủ tục bắt buộc Trong các loại hình thức di chúc được liệt kê ở trên, có những loại hình thức mà người để lại di chúc không được lựa chọn. Ở đây, nếu thuộc trường hợp pháp luật dự liệu người để lại di sản muốn lập di chúc thì phải lập di chúc theo hình thức bắt buộc. Cụ thể, theo Điều 656 BLDS Điều BLDS năm 1995, “trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc”. Khi thuộc “trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc” thì người lập di chúc phải lập di chúc theo thể thức nêu tại Điều 656 BLDS và không được lựa chọn hình thức di chúc có công chứng hoặc chứng thực. Nói cách khác, di chúc có công chứng, chứng thực được quy định tại Điều 657 không được sử dụng trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc được quy định tại Điều 656. Trong vụ việc được bình luận, cụ Dọn không thuộc trường hợp này nên cụ Dọn không phải lập di chúc theo thể thức được quy định tại Điều 656 BLDS và có thể lập di chúc theo quy định tại Điều 657 BLDS. Bên cạnh đó, theo khoản 2 Điều 658 BLDS Điều BLDS năm 1995, “trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng” . Với quy định này, khi “người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được” thì họ không có sự lựa chọn mà phải theo thủ tục nêu trên và họ không được lựa chọn hình thức di chúc khác trong đó có di chúc Di chúc có công chứng hoặc chứng thực. Nói cách khác, di chúc có công chứng, chứng thực tại Điều 657 không được sử dụng trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được theo quy định tại khoản 2 Điều 658 BLDS . Trong vụ việc được bình luận, cụ Dọn không thuộc trường hợp này nên cụ Dọn không phải lập di chúc theo thể thức của khoản 2 Điều 658. 8. Đúng ý chí của người lập di chúc Theo Điều 646 BLDS năm 2005 Điều BLDS năm 1995, “di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Với quy định này, di chúc là công cụ để thông qua đó ý chí đích thực của người lập di chúc được thể hiện một cách đầy đủ. Pháp luật đưa ra những quy định về hình thức và một số nội dung bắt buộc của di chúc cũng nhằm đảm bảo di chúc thể hiện đúng ý chí của người để lại di sản. Do đó, di chúc theo hình thức di chúc có công chứng hoặc chứng thực được quy định tại Điều 657 BLDS cũng phải thể hiện được ý chí đích thực của người để lại di sản. Trong vụ việc được bình luận, Tòa dân sự cũng nhấn mạnh ý chí của người để lại di sản khi bàn về di chúc của cụ Dọn. Thứ nhất, theo Tòa giám đốc thẩm, “nếu không có căn cứ xác định di chúc không thể hiện đúng ý chí của cụ Dọn thì cũng phải xác nhận phần công sức của ông Xiểm để công nhận cho ông Xiểm hưởng ½ di sản của cụ Dọn”. Ở đây, theo Tòa dân sự, nếu không có cơ sở xác định được ý chí đích thực của người để lại di sản trong văn bản di chúc thì phải chia di sản theo pháp luật. Thứ hai, vẫn theo Tòa dân sự, “nếu qua thu thập chứng cứ có cơ sở xác định cụ Dọn là người trực tiếp đem di chúc đến yêu cầu chính quyền xác nhận vào di chúc, thì phải xác định ý chí của cụ Dọn là cho ông “Siểm” hưởng tài sản của cụ”. Trong phần này, Tòa giám đốc thẩm không nói rõ là phải xác định được ý chí của người để lại di sản thì mới xử lý di sản theo di chúc nhưng việc Tòa giám đốc thẩm yêu cầu phải xác minh cụ Dọn có “trực tiếp đem di chúc đến yêu cầu chính quyền xác nhận vào di chúc” phần nào cho thấy vẫn cần phải xem đó có là ý chí đích thực của cụ Dọn hay không. Đối với di chúc có công chứng hay chứng thực, chúng ta cũng cần phải xác định được ý chí đích thực của người để lại di sản. Nếu nội dung di chúc thể hiện đúng ý chí của người để lại di sản thì phải công nhận di chúc và cần chia di sản theo di chúc. Đây cũng là hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán trong một vụ việc theo đó di chúc được Ủy ban nhân dân thành phố xác thực và có chứng cứ chứng minh di chúc là của người để lại di sản. Cụ thể, theo Hội đồng thẩm phán[9], “cụ Ba đã nhiều lần lập di chúc và di chúc cuối cùng lập ngày 07-01-1991 cụ Ba đã để lại cho bà Huệ 1/2 căn nhà số 95 và toàn bộ đồ dùng trong nhà thuộc giá trị phần tài sản của cụ trong khối tài sản chung vợ, chồng. Di chúc trên đã được Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hoà xác nhận. Tại các kết luận số 1367 ngày 5-2-1994 và số 689 ngày 21-5-1996, Công an tỉnh Đồng Nai và Viện khoa học hình sự Bộ Nội vụ đã khẳng định dấu vân tay trên di chúc trên là của cụ Ba. Do đó có cơ sở để xác định di chúc do cụ Ba lập ngày 07-1-1991 là di chúc hợp pháp theo quy định tại Điều 12 Pháp lệnh Thừa kế và Điều 655 Bộ luật dân sự. Tòa án cấp sơ thẩm công nhận di chúc và chia thừa kế phần di sản của cụ Ba theo di chúc cụ Ba lập ngày 07-01-1991 là có cơ sở, Tòa án cấp phúc thẩm lại cho rằng Ủy ban nhân dân thành phố Biên Hòa không có thẩm quyền xác nhận di chúc, từ đó không công nhận di chúc trên của cụ Ba và xử bác yêu cầu hưởng thừa kế theo di chúc của bà Huệ là không đúng”[10]. 9. Nội dung của di chúc Hiện nay, Điều 653 BLDS quy định di chúc bằng văn bản phải có một số nội dung nhất định. Cụ thể, “1. Di chúc phải ghi rõ a Ngày, tháng, năm lập di chúc; b Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; c Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; d Di sản để lại và nơi có di sản; đ Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ. 2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc”. Liên quan đến Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, Điều 655 yêu cầu di chúc phải đáp ứng yêu cầu trên. Cụ thể, theo Điều 655, “việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 653 của Bộ luật này”. Tương tự như vậy đối với di chúc bằng văn bản có người làm chứng được quy định tại Điều 656 theo đó “Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 653 … của Bộ luật này”. Đối với di chúc có công chứng, chứng thực được quy định tại Điều 657 BLDS, hiện nay chúng ta không có quy định tương tự. Thiết nghĩ, để có giá trị pháp lý, di chúc loại này cũng phải tuân thủ các quy định tại Điều 653 BLDS năm 2005. Điều 653 BLDS áp dụng cho di chúc bằng văn bản trong khi đó di chúc có công chứng, chứng thực tại Điều 657 BLDS là một loại di chúc bằng văn bản nên cũng phải tuân thủ các Điều 653. 10. Kết luận Di chúc là giao dịch thể hiện ý chí của người để lại di sản và là giao dịch rất trọng hình thức. Khi bản di chúc thể hiện đúng ý chí đích thực của người để lại di sản thì Tòa án có xu hướng ghi nhận di chúc và quyết định được bình luận cũng như quyết định của Hội đồng thẩm phán nêu trên đã cho thấy điều này[11]. Hướng đề cao ý chí đích thực của người đã khuất là đáng trân trọng vì chúng ta đang xem xét việc chuyển dịch tài sản mà họ để lại và điều này cho thấy pháp luật về thừa kế không chỉ là pháp luật dành cho những người còn sống mà còn là pháp luật đối với người đã chết. Thực ra, để đạt được kết quả trên, chúng ta có thể ứng xử theo một trong hai cách sau. Thứ nhất là chúng ta xác định di chúc không có hình thức phù hợp với quy định nhưng chúng ta đề cao ý chí của người để lại di sản nên vẫn chấp nhận di chúc. Đây là hướng trong kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc được bình luận vì, theo kháng nghị, “nếu qua thu thập chứng cứ có cơ sở xác định cụ Dọn là người trực tiếp đem di chúc đến yêu cầu chính quyền xác nhận vào di chúc, thì mặc dù hình thức di chúc không đúng theo quy định của pháp luật nhưng đã thế hiện ý chí của cụ Dọn là cho ông Xiểm hưởng di sản của cụ thì phải công nhận di chúc của cụ Dọn”. Thứ hai, chúng ta xác định có một loại hình thức di chúc không khắt khe đối với việc lập di chúc như xác định Di chúc có công chứng, chứng thực được quy định tại Điều 657 BLDS là một loại hình thức di chúc và coi di chúc có tranh chấp thuộc loại hình thức không khắt khe này. Trong hai cách nêu trên, cách thứ hai sáng tạo và an toàn hơn vì chúng ta chấp nhận một di chúc thứ nhất là thể hiện đúng ý chí của người để lại di sản, thứ hai có hình thức phù hợp với quy định. Với cách này, Di chúc có công chứng hoặc chứng thực được quy định tại Điều 657 BLDS là một loại hình thức bên cạnh các hình thức khác. Đây là hướng xử lý thuyết phục, vừa hợp lý vì di chúc phù hợp với quy định vừa hợp tình vì chúng ta tôn trọng ý chí đích thực của người để lại di sản được thể hiện thông qua di chúc và đáng được phát triển, nhất là đối với những di chúc được thiết lập trong những hoàn cảnh như di chúc của cụ Dọn. Xem thêm bài viết về “Chứng thực” Xem thêm bài viết về “Di chúc” Hướng sửa đổi quy định về thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc trong Bộ luật Dân sự 2005 – ThS. Vũ Hùng Đức CHÚ THÍCH ** PGS-TS, Trưởng Khoa Luật dân sự, ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh-Thành viên Tổ biên tập BLDS sửa đổi. * TS, giảng viên Khoa Luật dân sự, ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh. [1] Trong BLDS năm 1995, các nhà lập pháp chỉ đề cập đến công chứng nhà nước. BLDS năm 2005 có thay đổi nhỏ theo hướng công chứng nói chung nên có thể bao gồm công chứng tư làm trong Văn phòng công chứng và công chứng nhà nước làm trong Phòng công chứng. [2] Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế, Nxb, Hồng Đức 2012, tr. 242. [3] Nếu theo quy định tại khoản 1 Điều 658 thì người lập di chúc sẽ tuyên bố nội dung di chúc trước mặt người có thẩm quyền tại Ủy ban nhân dân. Người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân sẽ ghi chép lại nội dung, sau đó người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. [4] Chu Xuân Minh, Một số vấn đề cấp thiết cần lưu ý về áp dụng pháp luật dân sự, Ủy ban châu Âu và Tòa án nhân dân tối cao, Tài liệu tập huấn thi hành BLDS và BLTTDS, Nxb. CTQG 2008, tr. 175. [5] Phùng Trung Tập, Luật thừa kế Việt Nam, Nxb Hà Nội 2008, tr. 58. [6] Về hình thức di chúc miệng trong thực tiễn xét xử, xem thêm Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. CTQG 2013 xuất bản lần thứ hai, Bản án số 48-50. [7] Xem Chu Xuân Minh, Bđd, tr. 174 và 175. [8] Hoàng Thế Liên chủ biên, Bình luận khoa học BLDS năm 2005, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia 2010, tr. 51. [9] Quyết định số 25/2006/DS-GĐT ngày 02-10-2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. [10] Ở đây, Hội đồng thẩm phán đã ghi nhận di chúc trên cơ sở Điều 655 BLDS năm 1995 và quy định tại điều luật này được nhắc lại trong BLDS năm 2005 Điều 652 nên hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán nêu trên vẫn còn giá trị đối với việc áp dụng BLDS năm 2005. [11] Để có thêm thông tin về xu hướng này, xin dẫn thêm vụ việc sau Cụ Danh lập di chúc để lại di sản của mình cho ông Phương nhưng sau đó ông Tam cho rằng di chúc này không hợp pháp. Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận di chúc và ông Tám tiếp tục phủ nhận di chúc. Trong Quyết định rút kháng nghị số 12/2012/KN-DS ngày 18/12/2012, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã cho rằng “Bản án dân sự phúc thẩm số 61/2007/DSPT ngày 7-6-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng có hiệu lực pháp luật” và, liên quan đến di chúc, Chánh án chấp nhận hướng của Tòa phúc thẩm với nhận xét “xác minh tại địa phương về xác nhận di chúc của cụ Danh thì đúng như đơn khiếu nại mà ông Tam phản ánh là ông Nghĩa nguyên là chủ tịch phường năm 1995 là con rể ông Phương, còng ông Dũng nguyên là Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Vĩnh Trung năm 1995 là có quan hệ họ xa với vợ của ông Phương, nhưng ông Tú là cán bộ Tư pháp phường khai là khi lập di chúc cụ Danh khỏe mạnh, minh mẫn, cụ Danh ký trước đại diện lãnh đạo phường. Ông Thí cũng xác định di chúc thể hiện đúng ý chí của cụ Danh, di chúc đã được giám định đúng ý chí của cụ Danh. Vì vậy, không có dấu hiệu cho rằng di chúc của cụ Danh là không khách quan”. Tác giả Đỗ Văn Đại & TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng Nguồn Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam số 01/2013 74/ 2013 – 2013, Trang 54-61 Nguồn Fanpage Luật sư Online
1. Quy định pháp luật liên quan đến án lệ- Điểm d khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự 1999 tương ứng với điểm d khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự 2015.- Điều 257 Bộ luật hình sự 1999 tương ứng với Điều 330 Bộ luật hình sự 20152. Sự cần thiết công bố án lệ Thực tiễn cho thấy, có những hành vi, tình tiết tương tự nhau nhưng việc định tội, định khung lại không giống nhau. Cụ thể, trong vụ án sau Khi người điều khiển phương tiện giao thông bị cảnh sát giao thông yêu cầu dừng xe để kiểm tra và xử lý vi phạm thì người lái xe có hành vi chống đối và điều khiển phương tiện đâm thẳng vào lực lượng cảnh sát giao thông đang thi hành công vụ dẫn đến hậu quả chết người hoặc gây thương tích, tổn hại sức khỏe cho người thi hành công vụ. Có trường hợp định tội danh là cố ý gây thương tích, trường hợp khác cũng tương tự như vậy thì lại định tội danh là chống người thi hành công vụ, có trường hợp thì truy tố, xét xử về tội giết người theo Điều 93 BLHS vậy, với hành vi trên, việc định tội và định khung hình phạt là thiếu thống nhất. Do đó, cần thiết phải có một án lệ làm căn cứ định tội danh bảo đảm thống nhất trong việc áp dụng các quy định Nội dung vụ án hình sự và tình huống án lệ* Nội dung vụ án" Lời khai nhận tội của bị cáo Phan Thành H và Từ Công T phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận Vào khoảng 16 giờ 05 phút ngày 30-6-2017, bị cáo Phan Thành H điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS kéo theo sơmirơmoóc BKS khi đi đến km 488 + 650 quốc lộ 1A thuộc địa phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh thì bị tổ tuần tra Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh dừng xe vì đã vi phạm về tốc độ 66/60km/giờ. Bị cáo Phan Thành H đã không chấp hành vì cho rằng mình không vi phạm tốc độ, nên đã tranh cãi và điều khiển xe đâm thẳng vào ông Nguyễn Anh Đ và ông Lê Hồ Việt A là cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ, khi những người này đang đứng trước đầu xe ô tô. Ông Lê Hồ Việt A nhảy sang lề đường tránh được, còn ông Nguyễn Anh Đ buộc phải bám vào cọng gương chiếu hậu phía trước bên trái đầu xe. Phan Thành H tiếp tục điều khiển xe chạy với tốc độ cao, rồi bất ngờ đánh lái mạnh về phía bên trái vào sát giải phân cách giữa đường nhằm hất ông Nguyễn Anh Đ xuống đường để bỏ trốn. Hậu quả là ông Nguyễn Anh Đ bị rơi khỏi xe va vào giải phân cách cứng giữa đường, rồi rơi xuống đường. Phan Thành H bỏ mặc cho hậu quả xảy ra rồi tiếp tục điều khiển xe chạy trốn. Ông Nguyễn Anh Đ đã bị chấn thương sọ não, gãy chân, tổn hại sức khỏe 40%.Phan Thành H và Từ Công T còn có hành vi phạm tội như sau Bị cáo Từ Công T biết rõ bị cáo Phan Thành H chưa có giấy phép lái xe hạng FC và chưa đủ tuổi để được cấp giấy phép lái xe hạng FC, nhưng Từ Công T đã thuê một người ở Hải Phòng Từ Công T không biết rõ họ tên và địa chỉ làm giấy phép lái xe hạng FC giả, số 520144004729 có ảnh của Phan Thành H, nhưng mang tên Lưu Văn C đưa cho Phan Thành H sử dụng nhằm lừa dối cơ quan chức năng khi điều khiển xe trên đường. Khi có giấy phép lái xe giả do Từ Công T cung cấp, Phan Thành H đã hai lần sử dụng giấy phép lái xe giả để lừa dối cảnh sát giao thông tỉnh Quảng Ngãi và Công an huyện L, tỉnh Hà Tĩnh. Hành vi sử dụng giấy phép lái xe giả lừa dối cơ quan chức năng nêu trên của Phan Thành H, thì Từ Công T đều biết" .* Tình huống án lệLời khai nhận tội của bị cáo Phan Thành H và Từ Công T phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận Vào khoảng 16 giờ 05 phút ngày 30-6-2017, bị cáo Phan Thành H điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS kéo theo sơmirơmoóc BKS khi đi đến km 488 + 650 quốc lộ 1A thuộc địa phận xã K, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh thì bị tổ tuần tra Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Hà Tĩnh dừng xe vì đã vi phạm về tốc độ 66/60km/giờ. Bị cáo Phan Thành H đã không chấp hành vì cho rằng mình không vi phạm tốc độ, nên đã tranh cãi và điều khiển xe đâm thẳng vào ông Nguyễn Anh Đ và ông Lê Hồ Việt A là cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ, khi những người này đang đứng trước đầu xe ô tô. Ông Lê Hồ Việt A nhảy sang lề đường tránh được, còn ông Nguyễn Anh Đ buộc phải bám vào cọng gương chiếu hậu phía trước bên trái đầu xe. Phan Thành H tiếp tục điều khiển xe chạy với tốc độ cao, rồi bất ngờ đánh lái mạnh về phía bên trái vào sát giải phân cách giữa đường nhằm hất ông Nguyễn Anh Đ xuống đường để bỏ trốn. Hậu quả là ông Nguyễn Anh Đ bị rơi khỏi xe va vào giải phân cách cứng giữa đường, rồi rơi xuống đường. Phan Thành H bỏ mặc cho hậu quả xảy ra rồi tiếp tục điều khiển xe chạy trốn. Ông Nguyễn Anh Đ đã bị chấn thương sọ não, gãy chân, tổn hại sức khỏe 40%.Do có hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phan Thành H về tội “Giết người” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 và điểm b khoản 2 Điều 267 BLHS năm 1999 là có căn cứ, đúng pháp luật.”4. Tình tiết, sự kiện pháp lý tương tự áp dụng án lệKhi án lệ số 18/2018 có hiệu lực 03/12/2018, nếu có hành vi dùng phương tiện cố ý đâm thẳng vào lực lượng cảnh sát giao thông khi thi hành công vụ gây hậu quả thương tích hoặc chết người thì phải áp dụng ALHS số 18/2018 để xét xử về tội giết người với tình tiết định khung là giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 93 BLHS 1999 hoặc điểm d khoản 1 Điều 123 BLHS thức mở rộng, qua án lệ này giúp phân biệt rõ hành vi phạm tội giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân là tình tiết định khung quy định tại Điều 93 BLHS 1999, tương ứng với Điều 123 BLHS 2015 hoàn toàn khác biệt với hành vi khách quan và ý thức chủ quan của tội chống người thi hành công vụ quy định tại Điều 257 BLHS 1999, tương ứng với Điều 330 BLHS là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email info
Việc chứng minh, làm rõ các vấn đề để giải quyết vụ án hình sự rất quan trọng Nhiệm vụ của việc giải quyết vụ án hình sự là phát hiện và xử lý kịp thời tội phạm, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người phạm tội, các biện pháp xử lý đối với người phạm tội có căn cứ, hợp pháp và phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm do người phạm tội thực hiện, đáp ứng được yêu cầu cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự như sau Khi điểu tra, truy tổ và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do co ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điêm về nhân thân của bị can, bị cáo; chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nhân và điều kiện phạm tội; tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miên trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.” Những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự Vấn đề đầu tiên khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải chứng minh là có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội. Trong từng vụ án hình sự cần phải chứng minh một cách khẳng định rằng hành vi bị truy tố về mặt hình sự đã xảy ra trong thực tế. Việc chứng minh đó thể hiện ở việc làm sáng tỏ một cách đầy đủ và toàn diện tất cả các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội, có ý nghĩa đối với việc định tội danh đúng hành vi và suy cho cùng có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Đó là những dấu hiệu thuộc khách thể và mặt khách quan của tội phạm. Tiếp theo vấn đề cần phải chứng minh là ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội. Chứng minh ai là người thực hiện hành vi phạm tội, tức là xác định chủ thể của tội phạm. Tiếp đến xác định người đó có lỗi hay không. Nếu có lỗi thì lỗi cố ý hay vô ý. Mục đích và động cơ phạm tội cũng cần được chứng minh. Khái quát lại những dấu hiệu cơ bản thuộc chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm phải được làm sáng tỏ. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo là những vấn đề được chứng minh khi điều tra, truy tổ và xét xử. Đó là các tình tiết được quy định ở Điều 51 và Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 và các đặc điểm đặc trưng cho nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt đổi với bị cáo. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra là một trong những vấn đề phải được chứng minh trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra có ý nghĩa quan ưọng đôi với việc xác định mức độ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và có ý nghĩa đối với việc định tội danh, có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định mức độ bồi thường thiệt hại. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; những tình tiết liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt là những vấn đề tuy không thuộc bản chất của vụ án, nhưng có ảnh hưởng trực tiếp đến trách nhiệm hình sự và hình phạt. Do đó, cần được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chứng minh khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sựĐối tượng chứng minh để xác định có hay không có tội phạm, người phạm tội, pháp nhân phạm tội Đây là những vấn đề liên quan đến làm rõ các dấu hiệu để xác định người, pháp nhân có phạm tội hay không, nếu có thì phạm tội tượng chứng minh để xác định khung hình phạt tăng nặng hoặc khung hình phạt giảm nhẹ của tội phạm;Đối tượng chứng minh xác định các căn cứ quyết định hình phạt Xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự;Đối tượng chứng minh để xác định các căn cứ áp dụng án treo, áp dụng các biện pháp tư pháp;Đối tượng chứng minh để giải quyết các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự;Đối tượng chứng minh để xác định căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp cưỡng chế, áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại hoặc người thân thích của họ khi cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động tố tụng;Đối tượng chứng minh để xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm... Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại. viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từnguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ vớchuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 19006198, E-mail [email protected].
bình luận bản án hình sự